“Tự do ngôn luận” chứ không được “ngôn luận tự do”

 Mã Phi Long

Những ngày qua, liên quan đến việc bà Nguyễn Phương Hằng bị bắt vì tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân", quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự, nhiều người hay đề cập đến thuật ngữ “tự do ngôn luận trên mạng”. Tất nhiên, để có thể nói về điều đó đòi hỏi hai điều kiện cơ bản: Một là, xuất phát từ quyền tự nhiên của con người được tôn trọng, bảo vệ và thực thi trên thực tế và, hai là, kể từ khi Internet (nhất là mạng xã hội) trở nên phổ biến.


Bà Phương Hằng

Tự do và tự do ngôn luận - đó là giá trị và là quyền con người. Đề cập đến điều này, không phải tới tận xã hội cận hiện đại mới có, mà từ thời cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông đều nêu lên rồi. Chẳng hạn, Solon, vị chính khách thời cổ đại Hy Lạp cho rằng, muốn có tự do và công bằng thì chúng ta phải đặt luật pháp ngang hàng với sức mạnh (chính trị). Tới thế kỷ XVIII, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp đã chính thức khẳng định: “tự do là quyền của con người được làm tất cả những gì mà không phương hại đến quyền của người khác”.

Ở Trung Quốc cổ đại, Tử Sản, khi còn làm quan nước Trịnh (thời Xuân Thu) đã đặt ra quy định cho phép mọi người dân được phê bình kẻ chấp chính, hay Chiêu Công Hổ - một quan đại thần nhà Tây Chu đã ví việc tạo điều kiện cho người dân có thể nêu ý kiến về mọi việc trong đời sống xã hội chẳng khác gì khơi thông dòng nước cho con sông chảy ra biển.

Đối với Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây (cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà trong đó, quyền tự do ngôn luận được đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản Yêu sách. Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam go, gian khổ để hiện thực hóa thành công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do ngôn luận tiếp tục được khẳng định và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp 2013.

Khái lược một số thông tin lịch sử để thấy rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, đã phải trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm chí hy sinh xương máu của bao thế hệ. Vì lẽ đó, quyền tự do ngôn luận nhất quyết không phải là thứ mà những kẻ nào đó đem tới đất nước này để rao giảng, dạy dỗ hay xuyên tạc, bịa đặt về việc thực hiện nó trong cuộc sống. Nó cũng không phải là một quyền mà một bộ phận với nhận thức nông cạn, nửa vời, thô thiển có thể sử dụng để dễ dãi lên tiếng phê phán, chỉ trích, kích động, nói xấu vô căn cứ đối với các cá nhân, tổ chức. Thậm chí, trong bối cảnh hiện nay, một bộ phận xã hội tự cho mình cái quyền tự do ngôn luận lại “tung tăng buông lời trên mạng” một cách vô nguyên tắc.

http://www.bantindanchu.com/2022/03/tu-do-ngon-luan-chu-khong-uoc-ngon-luan.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

“MUỐN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, PHẢI CÓ CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÓ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”

Này thì “đả đảo”

Quy định mới về những điều đảng viên không được làm: Chống suy thoái từ sớm, từ xa